Có một câu chuyện cảm động từng xảy tại Hoa Kỳ, đó là có một nhóm phụ nữ đến với nhau qua internet, họ cùng tham gia vào một câu lạc bộ mang tên là “Câ”, vì họ có cùng một điểm chung.
Đó là một nhóm các bà mẹ có con qua phương pháp thụ tinh nhân tạo, và đều từ tinh trùng của một người đàn ông.
Sở dĩ nhóm phụ nữ lấy tên câu lạc bộ 66 vì đó chính là bí số của người đã hiến tặng tinh trùng, tức người cha sinh học của các con họ.
Với nước Úc, việc hiến tặng tinh trùng và trứng tại Úc không mới.
Nhân tin cho hay kể từ ngày 1/3/2017, những người hiến tặng trứng và tinh trùng trước năm 1998 tại Victoria, bằng hình thức ẩn danh, thì bây giờ có thể danh tính của họ sẽ được tiết lộ cho dù họ có cho phép hay không.
LS Nguyễn Văn Thân phân tích những tình huống rủi ro khi áp dụng đạo luật mới này về hiến tặng tinh trùng và trứng tại Victoria.
Bên cạnh đó, những cặp vợ chồng không có khả năng sinh con còn có thể tìm đến những người mang thai giùm. Tuy nhiên LS Thân nhận xét những đạo luật về các biện pháp hỗ trợ mang thai giùm tại Úc vẫn chưa thống nhất giữa các tiểu bang và vẫn còn nhiều lổ hổng.
Xin mời quý vị tham khảo thêm bài viết về Luật đẻ giùm của LS Nguyễn Văn Thân sau đây.
LUẬT ĐẺ GIÙM (THE LAWS OF SURROGACY)
Cả thế giới từng xôn xao về vụ đẻ mướn tại Thái Lan liên quan tới một cặp vợ chồng người Úc. Ông bà David & Wendy Farnell sinh sống tại Tây Úc.
Qua trung gian một trung tâm cung cấp dịch vụ đẻ mướn tại Thái Lan, ông bà Farnell nhờ cô Pattharamon Chanbua 21 tuổi mang thai và đẻ hộ giùm. Cô Chanbua đã có hai đứa con 6 và 3 tuổi.
Theo một số nguồn tin thì cô Chanbua được trả số tiền khoảng $16,000. Đối với cô, đây là một số tiền đáng kể có thể giúp cô trong cuộc sống và nuôi 2 đứa con nhỏ.
Cô Chanbua hạ sinh hai đứa con song sinh một trai và một gái trong tháng 12 năm 2013. Đứa bé gái tên Pipah thì khỏe mạnh nhưng bé trai tên Gammy thì mang hội chứng Down (Down syndrome) và bị bệnh tim bẩm sinh và viêm phổi. Ông bà Farnell mang bé gái về Úc nhưng để lại Gammy cho cô Chanbua.
Theo lời của cô Chanbua thì ông bà Farnell đã tới bệnh viện chăm sóc bé gái nhưng không bao giờ nhìn mặt hoặc bế ẵm Gammy mặc dù hai đứa bé nằm cạnh nhau.
Cô cũng kể rằng sau khi mang thai được 4 tháng thì bác sĩ cho biết về tình trạng bệnh tình của Gammy và ông bà Farnell đã yêu cầu cô phá thai nhưng cô không chịu vì niềm tin Phật giáo của mình. Vì thế, cô quyết định giữ và nuôi Gammy như chính con ruột của mình.
Sau khi câu chuyện của Gammy được tung lên công luận thế giới thì một chiến dịch gây quỹ trên mạng đã được thành lập và đã kiếm được trên $200,000 để giúp cô Chanbua trang trải chi phí y tế cho Gammy.
Nhiều người Úc cũng bày tỏ sự phẫn nộ của mình và theo lời tường thuật của một số cơ quan truyền thông thì ông Farnell đã từng có tiền án xâm phạm tình dục trẻ em. Một viễn ảnh đen tối là khi có những những tội phạm tình dục trẻ em (pedophiles) bỏ tiền ra mướn những người phụ nữ ở những nước nghèo đẻ mướn.
Con cái sinh ra có được sống trong vòng tay bảo bọc an toàn của cha mẹ hay không hay sẽ trở thành nạn nhân của những vụ xâm phạm tình dục? Một số người đã lên tiếng yêu cầu chính quyền xem xét lại luật đẻ mướn để phòng tránh trường hợp này có thể xảy ra.
Trong cuộc phỏng vấn với Chương trình 60 Minutes của Đài Truyền Hình số 9, ông bà Farnell phủ nhận cáo buộc của cô Chanbua là họ đã bỏ rơi Gammy. Họ cũng phủ nhận là đã yêu cầu cô Chanbua phá thai vì bệnh tình của Gammy nhưng nói rằng họ rất tức giận khi đưoơc thông báo trễ là Gammy bị Down syndrome và họ đã yêu cầu trung tâm dịch vụ đẻ mướn bồi hoàn phí tổn mà họ đã trả.
Ông Farnell cũng nói là nếu biết sớm về tình trạng của Gammy thì chắc chắn ông đã yêu cầu cô Chanbua phá thai vì không có cha mẹ nào mong muốn có một đứa con trai bị tật nguyền cả.
Ngoài ra, ông Farnell cũng thú nhận là ông đã từng mang tội xâm phạm tình dục trẻ em nhưng bây giờ không còn thèm muốn làm chuyện ấy với trẻ em nữa vì ông đã được tư vấn (counselling) trong lúc ở tù.
Luật Đẻ Giùm
Đẻ giùm có hai loại: thông thường (traditional surrogacy) và thai nghén (gestational surrogacy). Khi người vợ không thể thụ thai và sinh con được thì có thể cấy tinh trùng của người chồng vào tử cung của người phụ nữ đẻ thế. Sau khi sinh xong thì giao con cho cặp vợ chồng.
Trong trường hợp thứ hai (gestational) thì người vợ có thể thụ thai nhưng không mang bào nhi được vì một chứng bệnh nào đó. Tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ được cấy trong một ống thí nghiệm đến khi trứng kết thai thì đem đặt vào tử cung của người mẹ đẻ thế.
Cặp vợ chồng là cha mẹ ruột và đứa con sẽ mang vật liệu di truyền (DNA) của họ. Người mẹ đẻ thế chỉ mang thai và sinh con hộ, rồi giao đứa bé lại cho cha mẹ ruột của nó.
Đẻ giùm có thể vì mục đích nhân đạo (altruistic) hoặc thương mại (commercial). Hiện nay thì tất cả các tiểu bang và lãnh thổ của Úc (trừ Bắc Úc) đều có ban hành đạo luật đẻ giùm.
Tiểu bang NSW, ACT và Queensland cấm đẻ mướn (tức là thỏa thuận trả tiền giữa cặp vợ chồng và một người phụ nữ khác đồng ý đẻ con giùm). Nếu phạm tội có thể bị phạt tới $110,000 hoặc án tù hai năm. Luật Đẻ giùm của Tây Úc không có điều khoản ngăn cấm hợp đồng đẻ mướn.
Đa số các đạo luật đẻ giùm tại các tiểu bang vẫn còn rất mới mẻ, ví dụ như Đạo Luật Đẻ Giùm tại NSW chỉ mới được ban hành vào năm 2011.
Trong bài phát biểu lần thứ hai (second reading speech) giới thiệu Dự luật tại Quốc hội Tiểu bang NSW, cựu Bộ trưởng Tư pháp NSW John Hatzistergos cho biết mục đích của Dự luật Đẻ giùm là tạo điều kiện pháp lý rõ ràng cho những người liên hệ trong việc thỏa thuận đẻ giùm và để bảo vệ những đứa con chào đời qua hình thức này.
Vào thời điểm đó thì dưới Đạo luật Tư cách Pháp nhân của Trẻ con (Status of Children Act 1996), cha mẹ của đứa bé là người sinh đẻ.
Có nghĩa là cặp vợ chồng hoặc phối ngẫu (gồm có vợ chồng nam nữ hoặc một cặp phối ngẫu đồng tính nam (homosexuals) hoặc nữ (lesbians) không phải là cha mẹ của đứa bé được một người phụ nữ khác đẻ giùm và không có tư cách phụ huynh để xin Medicare, ghi danh đi học, không xin được tiền phụ cấp (tiền sữa) hoặc passport cho đứa bé.
Trong khi đó, người mẹ đẻ giùm lại phải nhận lãnh mọi trách nhiệm pháp lý của một phụ huynh. Thông thường thì đứa bé sinh ra sống với và được chăm sóc bởi cặp vợ chồng hoặc phối ngẫu nhờ đẻ thế nhưng họ lại không có tư cách phụ huynh trên mặt pháp lý.
Mọi việc phải trông cậy vào người mẹ đẻ thế và vì vậy tạo ra nhiều khó khăn và bất tiện. Nếu hai bên có quan hệ tốt thì không đến nỗi nào. Bằng không thì đứa bé sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi. Tuy họ có thể đưa sự việc rà Tòa án Gia đình nhưng án lệnh của Tòa án Gia đình chỉ có tính cách tạm thời và sẽ không áp dụng khi đứa bé tới 18 tuổi.
Nếu không chứng minh được quan hệ mẫu tử hoặc phụ tử thì đứa bé có thể mất quyền thừa hưởng gia tài.
Đạo luật Đẻ giùm NSW 2011 cho phép Tòa Thượng thẩm ban án lệnh chính thức trao quyền phụ huynh từ người mẹ đẻ thế (surrogate mother) sang cha mẹ thực thụ (intended parents) của đứa bé với điều kiện là các điều khoản yêu cầu của Đạo luật được tuân thủ triệt để.
Thứ nhất, cha mẹ thực thụ và người mẹ đẻ thế phải có sự thỏa thuận rõ ràng trước khi cấy tinh trùng thụ thai. Thỏa thuận này phải dựa trên nguyên tắc nhân đạo. Tòa sẽ không công nhận hợp đồng đẻ mướn.
Người mẹ đẻ giùm phải trên 25 tuổi để bảo đảm họ đủ trưởng thành khi đồng ý chấp nhận quyết định quan trọng này (theo Đạo luật tương tự tại Victoria thì người mẹ đẻ phải trên 25 tuổi và đã từng sinh con qua). Tất cả mọi người liên hệ đều phải được tư vấn về mặt tâm lý, tinh thần, tình cảm và pháp lý.
Đơn xin án lệnh phải được nộp lên tòa sau một tháng và trong vòng sáu tháng từ ngày sinh của đứa bé và phải kèm theo một văn bản báo cáo của chuyên gia cố vấn độc lập (independent counsellor’s report) là án lệnh chuyển quyền phụ huynh thật sự có lợi cho đứa bé.
Quan trọng nhất là sự đồng thuận của người mẹ đẻ thế. Tòa sẽ không cấp án lệnh chuyển quyền phụ huynh nếu người mẹ đẻ không đồng ý.
Đạo luật Đẻ giùm NSW không phải là chìa khoá giải quyết hết tất cả mọi vấn đề liên quan tới khía cạnh phức tạp này. Không có điều khoản nào ngăn cấm những người có tiền án xâm phạm tình dục trẻ em nhờ người khác đẻ giùm.
Thông thường thì người đẻ giùm và người nhờ đẻ giùm là quen thân nhưng không có nghĩa là biết rõ được quá khứ của nhau.
Còn trong trường hợp đứa bé mang tật bẩm sinh và cả hai bên cha mẹ đều không muốn nhận nuôi thì sao? Hoặc sau khi mang nặng đẻ đau thì người mẹ đẻ đổi ý phá vỡ hợp đồng và quyết giữ và giành quyền nuôi con thì sao?
Trên căn bản thì luật pháp sẽ dựa vào nguyên tắc quyền lợi của đứa bé là trên hết. Nhưng làm sao để xác định được quyền lợi của đứa bé khi nó vừa mới chào đời?
Trong thời đại bon chen hiện nay, người ta có xu hướng kết hôn trễ và sinh con trễ. Đôi khi người vợ để quá trễ thì khó sinh. Hơn nữa, hôn nhân đồng tính ngày càng được xã hội dễ dành chấp nhận. Nhiều cặp phối ngẫu đồng tính cũng thèm có con.
Nói chung là nhu cầu đẻ giùm ngày càng gia tăng. Không phải dễ kiếm người chịu đẻ giùm và luật đẻ giùm cũng có chỗ sơ hở. Theo chiều hướng này thì sẽ có người sẵn sàng bỏ tiền thuê những phụ nữ nghèo ở các quốc gia như Thái lan hoặc Ấn độ làm mẹ đẻ mướn.
Một số tiểu bang có luật cấm đẻ mướn nhưng ở nơi khác thì không có. Người nào muốn bỏ tiền thuê mẹ đẻ mướn có thể dời chỗ ở đến những tiểu bang không cấm như Tây Úc, Victoria, Nam Úc…
Câu chuyện của bé Gammy dù sao cũng đã tạo một ấn tượng tiêu cực về người Úc. Có lẽ đã đến lúc các nhà làm luật tại các tiểu bang tìm cách phối hợp với nhau để có một hệ thống luật pháp thuần nhất để những trường hợp tương tự như bé Gammy sẽ không tái diễn.